Trải nghiệm khách hàng đang trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các đối thủ trên thị trường, tạo ra trải nghiệm tốt là một trong những yếu tố cốt lõi để doanh nghiệp giữ chân khách hàng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa sâu sát trong việc xây dựng trải nghiệm tích cực và thực hiện quy trình bày bản để nâng cấp trải nghiệm khách hàng. Một nghiên cứu của KPMG tiến hành trên 620 doanh nghiệp tại châu Á - Thái Bình Dương chỉ ra rằng chỉ có khoảng 45% doanh nghiệp đang sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích dữ liệu để quản lý trải nghiệm khách hàng. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp ngày càng mở rộng điểm chạm với khách hàng qua những kênh khác nhau như pop-up store, cửa hàng vật lý, mạng xã hội, website, sàn thương mại điện tử,... cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc quản trị trải nghiệm khách hàng nhất quán và hiệu quả.
Đầu tháng 3/2023, sự việc một khách hàng phản ánh về trải nghiệm không tốt tại rạp chiếu phim đã nhận được nhiều sự quan tâm. Cụ thể, khách hàng này phải chấp nhận ra về trong buổi đi chơi cùng bạn vì rạp phim hết suất chiếu. Điều khiến anh bức xúc là trong cùng thời điểm, một nam nghệ sĩ nổi tiếng đã được phục vụ tại quầy khác và vẫn có thể tiến hành xem phim. Bài đăng chia sẻ của nam khách hàng này đã nhanh chóng nhận được lượng tương tác bùng nổ và đăng tải lại trên mạng xã hội. Phía nhân viên rạp phim và nghệ sĩ sau đó có đưa ra lời giải thích, tuy nhiên những phản hồi qua lại và được đánh giá là có phần “thiếu nhất quán” giữa các bên càng thổi bùng làn sóng tẩy chay, khiến cộng đồng mạng để lại nhiều nhận xét và đánh giá tiêu cực trên trang Google Maps và trang Facebook của rạp chiếu.
Từ sự việc nói trên, marketer có thể đúc kết những bài học gì trong hoạt động quản trị trải nghiệm khách hàng? Cùng Thạc sĩ Lê Minh Hoàng Long, Giảng viên khoa Quản Trị Kinh Doanh tại Đại học Ngân Hàng phân tích về vấn đề này.
Việc khách hàng có những trải nghiệm khi tiếp xúc với thương hiệu đã tồn tại từ rất lâu. Tuy nhiên phải đến năm 1988 khi tác giả Pine và Gilmour ra mắt quyển sách “Nền kinh tế trải nghiệm” và đăng tải bài viết “Chào mừng đến nền kinh tế trải nghiệm” trên tạp chí Harvard Business Review thì công chúng mới bắt đầu chú ý và ứng dụng khái niệm này vào khía cạnh kinh doanh, học thuật.
"The Experience Economy" của Pine và Gilmour được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1999. Quyển sách đặt những nền móng đầu tiên về khái niệm nền kinh tế trải nghiệm và quản trị trải nghiệm khách hàng
Hiểu đơn giản, trải nghiệm khách hàng là tổng thể cảm nhận của khách hàng trong quá trình họ tương tác với thương hiệu (theo Harvard Business Review). Như vậy có thể chia trải nghiệm khách hàng thành hai khía cạnh.
Thứ nhất là khía cạnh nhận thức, bao gồm suy nghĩ, đánh giá, cảm nhận và phản ứng của khách hàng đó đối với thương hiệu. Thứ hai, chính là quá trình khách hàng tương tác với thương hiệu. Nhiều người thường nhầm lẫn rằng chỉ có những tương tác trực tiếp mới được gọi là trải nghiệm khách hàng. Tuy nhiên khi các phương thức bán hàng đang chuyển dịch từ bán hàng offline sang thương mại offline, thì quá trình bạn truy cập website thương hiệu, chọn lựa sản phẩm trên các kênh mạng xã hội cũng được xem là trải nghiệm khách hàng hoặc việc khách hàng mua hàng về sử dụng và có những đánh giá trên trang thương mại điện tử của thương hiệu cũng chính là một trải nghiệm. Vậy nên, quá trình tương tác ở đây sẽ được hiểu ở cả khía cạnh trực tiếp lẫn gián tiếp.
Có nhiều phương thức phân loại trải nghiệm khách hàng khác nhau. Cụ thể, nếu xét trên hành trình khách hàng tương tác với thương hiệu thì có thể chia trải nghiệm khách hàng thành 3 giai đoạn: trước mua; trong mua và sau mua. Hoặc có thể đánh giá trải nghiệm khách hàng dựa trên mô hình 7P của Marketing Mix gồm: sản phẩm (product); giá (price); địa điểm (place); xúc tiến (promotion); con người (people); quy trình (process) và cơ sở hạ tầng (physical evidence).
Chung quy lại dù có nhiều cách phân loại khác nhau, doanh nghiệp cần thực hiện 5 bước dưới đây để tạo ra một trải nghiệm đồng nhất trong tất cả các điểm chạm với khách hàng:
Trong quản trị trải nghiệm khách hàng, doanh nghiệp cần lưu ý hai vấn đề đó là giá trị của trải nghiệm và các điểm chạm - nơi xảy ra tương tác với khách hàng. Về lý thuyết, giá trị trải nghiệm phải được truyền tải nhất quán, xuyên suốt giữa các điểm chạm.
Ở sự việc nói trên, giá trị của rạp phim là mang đến sự thoải mái và giải trí cho khách hàng. Như vậy, những mục tiêu mà doanh nghiệp này hướng đến có thể là niềm vui hay sự tinh tế, ân cần của nhân viên phục vụ. Tuy nhiên giá trị này đã không được đảm bảo xuyên suốt hành trình trải nghiệm của khách hàng.
Ở điểm chạm đầu tiên, cách xử lý của nhân viên rạp phim đã vô tình khiến mọi người hiểu rằng họ ưu tiên phục vụ nam nghệ sĩ đặt cả phòng thay vì giải quyết vấn đề cho khách hàng đến trước
Có thể thấy, tất cả các điểm chạm trong trường hợp trên đều mang đến cho khách hàng trải nghiệm không vui. Điểm chạm sau không giải quyết được sai sót của điểm chạm trước càng khiến vấn đề trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài ra, một vấn đề mà doanh nghiệp cần lưu ý là làm cho trải nghiệm đồng nhất và không phân biệt giữa các khách hàng khác nhau trong cùng một điểm chạm. Chính trong tình huống trên, nhân viên rạp phim đã vô tình khiến mọi người hiểu rằng họ ưu tiên phục vụ nam nghệ sĩ đặt cả phòng thay vì giải quyết vấn đề cho khách hàng đến trước. Điều này làm nảy sinh cảm giác không hài lòng của khách hàng. Trường hợp doanh nghiệp muốn ưu tiên VIP (khách quan trọng), họ có thể tạo một kênh riêng. Ví dụ, vé hạng thương gia của các hãng bay được phục vụ lối đi, phòng chờ riêng. Điều này sẽ làm giảm sự phân biệt đối xử trong cùng một phân khúc giá và đảm bảo cho trải nghiệm khách hàng từ những bước đầu tiên.
Phải khẳng định rằng, nhân viên chính là đối tượng tiếp xúc trực tiếp nhiều nhất với khách hàng xuyên suốt hành trình trải nghiệm. Nếu trải nghiệm với nhân viên không tích cực, thì toàn bộ mọi khía cạnh trải nghiệm còn lại của hành trình bao gồm sản phẩm, dịch vụ, cơ sở vật chất dù có tốt đến mấy cũng như “đổ sông đổ bể”. Do vậy, đào tạo nhân viên là một bước quan trọng để xây dựng quy trình cụ thể trong việc quản trị trải nghiệm.
Tuy nhiên, đào tạo nhân viên phải có căn cứ và được xây dựng từ gốc rễ. Nghĩa là ngay từ kiến trúc thượng tầng, ban quản lý doanh nghiệp phải thấm nhuần câu chuyện trải nghiệm khách hàng sau đó truyền tải xuống các cấp dưới. Có như vậy, nhân viên mới thực hiện quy trình quản trị trải nghiệm một cách nhất quán được.
Có bốn bước để thực hiện quy trình này:
Một trải nghiệm khách hàng tốt sẽ mang đến nhiều giá trị cho doanh nghiệp bao gồm:
Đối nghịch với những lợi ích trên là rủi ro có thể xảy ra khi trải nghiệm khách hàng không tốt. Đầu tiên là mất khách, mất doanh thu. Thứ hai nếu trải nghiệm không đồng nhất giữa các điểm bán sẽ làm giảm sự hài lòng của khách hàng và đánh mất hình ảnh thương hiệu. Ngoài ra một rủi ro có thể xảy ra trong thời đại mạng xã hội hiện nay chính là việc lan truyền những thông tin không tích cực.
Đó cũng là rủi ro mà cụm rạp phim trên gặp phải khi không có quy trình quản trị trải nghiệm khách hàng và đối thoại truyền thông hợp lý. Cộng thêm chất xúc tác là hiệu ứng đám đông đã làm sự kiện vừa qua bùng nổ đến mức khó kiểm soát.
Quy tắc đầu tiên là xử lý trải nghiệm không tốt tại nơi phát sinh. Cho nên doanh nghiệp phải làm mọi cách để xử lý trực tiếp và đảm bảo sự hài lòng của khách hàng nay tại điểm chạm này. Sau đó, doanh nghiệp cần:
Nếu doanh nghiệp đã thực hiện đầy đủ các bước kể trên mà khách hàng vẫn không hài lòng và vấn đề tiêu cực bắt đầu lan truyền trên các kênh không chính thống. Phương án xử lý sẽ là:
Bản chất câu hỏi này tập trung vào việc quản trị phát ngôn của nhân viên, nghĩa là doanh nghiệp phải làm thế nào để đảm bảo thông tin mà nhân viên đưa ra không gây tổn hại đến giá trị, tôn chỉ thương hiệu trong lòng khách hàng.
Muốn như vậy, doanh nghiệp cần phải xây dựng một bộ quy tắc phát ngôn. Bao gồm những thông tin: doanh nghiệp được phát ngôn về những vấn đề gì, ai sẽ là người phát ngôn,... Thậm chí, nhân viên muốn sử dụng hình ảnh của doanh nghiệp trong các bài đăng cá nhân cũng phải tuân theo bộ quy chuẩn này. Sau đó, doanh nghiệp thường xuyên đào tạo và quán triệt chủ đề này với nhân viên. Việc xây dựng một bộ quy tắc từ đầu để các cá nhân của tổ chức tuân theo sẽ được áp dụng trong tất cả các trường hợp, kể cả đối thoại thông thường hay xử lý trong khủng hoảng truyền thông.
Có thể liên hệ vấn đề này với sự việc gần đây của một hãng hàng không trong nước. Cụ thể, khi phát sinh sự kiện liên quan đến pháp lý, bộ phận PR và truyền thông của hãng đã trả lời báo chí rất chuyên nghiệp: hãng cho biết đã nắm thông tin về vụ việc; sẽ tạm thời đình chỉ nhân viên để phục vụ công tác điều tra; sau đó nếu nhân viên có kết luận vi phạm thì sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật, không bao che. Tuy nhiên, một cá nhân khác là trưởng đoàn bay lại trả lời với báo chí theo hướng bào chữa: các nhân viên này trẻ người non dạ vì chỉ mới bay được một năm, không đề phòng vì người nhà nhờ gửi đồ. Chính từ phát ngôn của nhân viên đó, cộng đồng mạng đã vin vào vấn đề này để đả kích thương hiệu, thổi bùng cuộc khủng hoảng.
Như vậy, lưu ý tối quan trọng là thương hiệu cần chuẩn bị bộ quy tắc phát ngôn để quán triệt nhân viên, tránh tình trạng “cháy thành vạ lây”.
Quy trình xử lý khủng hoảng này thường gồm 7 bước:
1. Xác định mức độ ảnh hưởng hiện tại và dự báo khả năng lan truyền để ra quyết định xử lý khủng hoảng:
Mỗi doanh nghiệp sẽ có bộ tiêu chí đo lường riêng để đánh giá khủng hoảng, Tuy nhiên, nếu khủng hoảng không quá ảnh hưởng đến doanh thu hoặc không có khả năng lan truyền thì doanh nghiệp có thể sử dụng giải pháp im lặng để sự việc lắng xuống.
2. Lập đội ứng phó khẩn cấp
Nhóm này bao gồm các bộ phận có trách nhiệm như quản lý, chăm sóc khách hàng, PR và bộ phận có liên quan trực tiếp đến khủng hoảng để tìm hiểu vấn đề.
3. Xây dựng kịch bản xử lý
Sau đó, đội ứng phó khẩn cấp họp lại và lên kịch bản xử lý khủng hoảng theo hướng trung lập. Ở mỗi bước xử lý, kịch bản sẽ dự phòng, phác thảo kết quả phản ứng và kế hoạch thực hiện các bước tiếp theo.
4. Chỉ định người phát ngôn và ra quy tắc phát ngôn
Phát ngôn của thương hiệu phải dựa trên các tiêu chí: (1) Tìm hiểu rõ trước khi trả lời; (2) Có giải pháp xử lý; (3) Nhất quán; (4) Tập trung vào con người.
Đầu tiên, thương hiệu phải đưa ra lời xin lỗi. Trong các khủng hoảng phát sinh liên quan đến trải nghiệm khách hàng, trước khi thương hiệu xin lỗi về chuyện đúng sai (vì vấn đề này cần thời gian để phân xử, xử lý) thì cần xin lỗi ngay về việc tạo ra trải nghiệm không tốt cho khách hàng.
5. Quy thông tin về một mối
Thông thường, đầu mối thông tin này sẽ là lĩnh vực doanh nghiệp có thể mạnh như website, thông cáo báo chí, KOLs,...
6. Cập nhật các bước xử lý và cam kết
Khi một khủng hoảng nổ ra, công chúng thường chờ đón những phản hồi từ thương hiệu. Vì vậy, thương hiệu cần đảm bảo thông tin thông suốt và liên tục cập nhật các bước xử lý, cam kết.
7. Truyền thông hậu khủng hoảng
Đây là bước mà nhiều doanh nghiệp chưa thật sự chú tâm và thực hiện. Sau khủng hoảng, doanh nghiệp cần dọn dẹp những tàn tích tiêu cực như đánh giá thấp trên fanpage, các bài đăng trên mạng xã hội,... bằng cách xoá hoặc gây “ngập lụt” (flood) bằng những thông tin tích cực. Ngoài ra, thương hiệu cũng có thể triển khai các chiến dịch truyền thông xã hội để tái thiết lập thiện cảm nơi khách hàng.
Ngoại trừ Google có khả năng nhận diện các bình luận tấn công, thù địch, doanh nghiệp phải chủ động gây ngập lụt bằng các bình luận, seeding, thông tin tích cực để tái thiết lập thiện cảm nơi khách hàng hậu khủng hoảng
1. FamilyMart và nghi vấn lẩu ly có chứa dòi
Sự việc bắt đầu từ một phản ánh của khách hàng, nghi vấn lẩu ly của thương hiệu có 3 con dòi. Ngay sau đó, phản ứng đầu tiên của FamilyMart là thông báo trên các kênh chính thống về việc ngưng bán sản phẩm tại tất cả các cửa hàng trong hệ thống để kiểm tra. Ngoài ra, thương hiệu cũng nhanh chóng nhận lỗi vì đã gây ra một trải nghiệm không tốt cho khách hàng và sẽ kết hợp một bên thứ 3 độc lập đánh giá sản phẩm. Thông thường trong khủng hoảng, thương hiệu có thể tìm kiếm những cơ quan uy tín để tạo ra sự yểm trợ về thông tin. Đó có thể là cơ quan chức năng, nhà báo uy tín hoặc cộng đồng KOLs,.... Sau khi có kết quả kết luận mẫu vẫn không phải là ấu trùng mà là một phần bên trong hạt ớt, thương hiệu đã khôi phục sản phẩm tại các điểm bán.
FamilyMart nhanh chóng làm việc với cơ quan kiểm định để đánh giá, xác minh thông tin
Như vậy, dù xác minh sản phẩm không có dòi như phản ánh, FamilyMart vẫn lên tiếng xin lỗi vì đã tạo ra trải nghiệm không tốt cho khách hàng cũng như tạo ra những lo lắng và bất tiện cho công chúng do các thông tin gây tranh cãi về sản phẩm.
2. Biti's Hunter và dự án Bloomin' Central
Là dự án ra mắt sản phẩm mới lấy cảm hứng từ miền Trung, dự án Bloomin’ Central của Biti’s đã nhanh chóng nhận được sự chú ý của công chúng vì những thông tin gây tranh cãi về chất liệu sản phẩm. Cụ thể, một nhân vật ảnh hưởng đã lên tiếng chỉ trích Biti's Hunter sử dụng loại gấm được bán trên Taobao (Trung Quốc). Không chỉ vậy, Biti’s còn được cho là nhầm lẫn khi quảng bá sản phẩm thổ cẩm Tây Nguyên nhưng thực chất là hoa văn của dân tộc Chăm, với tên gọi là hoa văn chân chó “takai asau”.
Biti's Hunter nhanh chóng đưa ra lời xin lỗi kèm các giải pháp phù hợp để đảm bảo trải nghiệm khách hàng
Chỉ trong vòng chưa đến một ngày, Biti's Hunter đã chính thức xin lỗi và đưa ra lời giải thích về những vấn đề xoay quanh dòng sản phẩm mới. Đầu tiên, thương hiệu đưa ra lời xin lỗi vì đã tạo ra trải nghiệm không tích cực liên quan đến sản phẩm. Ngoài ra, lời xin lỗi của thương hiệu cũng đính kèm giải pháp xử lý: (1) Gọi đúng tên hoa văn chân chó trong Thổ cẩm của dân tộc Chăm trên các sản phẩm truyền thông, (2) Thay thế chất liệu vải gấm lấy cảm hứng từ văn hoá nghệ thuật trong nước. Mặc dù những giải pháp này có thể gây ra thiệt hại không nhỏ cho quá trình sản xuất sản phẩm, thương hiệu vẫn chấp nhận thay đổi để bảo toàn trải nghiệm khách hàng.
Xin cảm ơn Thầy về chia sẻ trong chủ đề này. Chúc Thầy thật nhiều sức khỏe.
24 Thg 01 2025
Ori Marketing Agency
Theo dõi bởi 146 người
24 Thg 01 2025
© Advertising Vietnam - All rights reserved